Lâm triều xưng Chế Chương Hiến Minh Túc Hoàng hậu

Thiết lập quyền lực

Năm Càn Hưng nguyên niên (1022), ngày 19 tháng 2 (tức ngày 22 tháng 3 dương lịch), Tống Chân Tông băng hà, thọ 54 tuổi. Di mệnh Hoàng thái tử Triệu Trinh tức vị Hoàng đế, tức Tống Nhân Tông. Lưu Hoàng hậu được di chiếu tôn Hoàng thái hậu, lại ban chỉ dụ:「Quân quốc trọng sự, quyền thủ xử phân; 軍國重事,權取處分」, có nghĩa rằng Thái hậu hoàn toàn có quyền xen vào chính sự nếu là sự kiện trọng đại[20]. Tống Nhân Tông kế vị khi đó chỉ mới 11 tuổi, quyền lực do Lưu Thái hậu trực tiếp nắm giữ. Khi ấy, Vương Tăng (王曾) phụng chỉ nhập cung thảo di chế, ghi rõ Hoàng hậu ["Quyền"; 權] xử lý chính sự. Chữ "Quyền" này mang ý Lưu Thái hậu sẽ tạm thời xử lý chính sự, Đinh Vị đòi bỏ chữ ấy, Vương Tăng cự tuyệt và nhất định giữ lại để biểu thị Lưu Thái hậu chỉ có quyền hạn tạm thời[21].

Vương Tăng đề nghị Lưu Thái hậu theo lệ cũ thời Đông Hán, mời Lưu Thái hậu buông rèm nghe chính bên phải Hoàng đế, cứ 5 ngày thiết triều một lần. Đinh Vị không cho là vậy mà kiến nghị chỉ mùng 1 và ngày 15 của tháng thì Nhân Tông sẽ thiết đại triều truyền bá quan vào điện, còn lại đều do Lưu Thái hậu triệu kiến ở Nội điện, quyết định sự vụ, đều do Áp ban Lôi Doãn Cung (雷允恭) truyền đạt. Vương Tăng phản đối, nhưng Đinh Vị kiên quyết thực hiện. Sau, Lôi Doãn Cung bị tội mà ban chết, kế hoạch của Đinh Vị cũng bị phá sản, trình tự thùy liêm của Vương Tăng được thông qua. Lưu Thái hậu theo thỉnh cầu của Vương Tăng, từ đó ngự ở Thừa Minh điện (承明殿), Hoàng đế ở bên trái, Thái hâu ở bên phải cùng nghe chính sự, trong chế xưng là [Ngô; 吾], sinh nhật của Thái hậu là Trường Ninh tiết (長寧節), ra vào dùng Đại An liễn (大安輦), mệnh thiên hạ kị tên của cha Thái hậu, và quần thần dâng tôn hiệu [Ứng Nguyên Sùng Đức Nhân Thọ Từ Thánh Hoàng thái hậu; 應元崇德仁壽慈聖皇太后][22][23].

Sau khi lên ngôi Hoàng thái hậu, Lưu thị truy phong cho dòng họ của mình:

Phế trừ Đinh Vị

Đại thần Đinh Vị lúc trước có công phò tá Lưu Thái hậu, thăng Thái tử Thiếu bảo (太子少保), bây giờ ngược lại dần trở nên kiêu ngạo, có ý luôn làm trái lời bà. Lưu Thái hậu vào lúc nắm quyền, luôn muốn tự mình quyết định chính sự, muốn tìm cách trừ bỏ hoàn toàn Đinh Vị. Đại thần Vương Tăng thấy được sự rạn nứt giữa Thái hậu và họ Đinh, nhân một dịp đơn độc vào cung mà ra lời can gián, hạch tội Đinh Vị, càng khiến Thái hậu muốn trừ Đinh Vị.

Vào một dịp, Đinh Vị cùng Lôi Doãn Cung lo việc xây lăng tẩm cho Tống Chân Tông. Lúc lăng đang xây, Lôi Doãn Cung muốn thay đổi kết cấu sơn lăng. Lưu Thái hậu cho là việc hệ trọng như vậy không nên thay đổi tùy tiện. Lôi Doãn Cung và Đinh Vị vẫn không nghe lời Lưu Thái hậu. Quả nhiên khi đào sâu xuống thì thấy đá và dòng nước. Lưu Thái hậu biết được, ngự Thừa Minh điện và triệu Lôi Doãn Cung đến chất vấn, nhưng Đinh Vị một mục bao che cho Lôi Doãn Cung. Lưu Thái hậu sai Vương Tăng lại đến xem xét, Vương Tăng về báo Đinh Vị, Lôi Doãn Cung thông đồng di chuyển đạo huyệt vào nơi tuyệt lộ. Lưu Thái hậu giận lắm, hạ lệnh cho Lôi Doãn Cung được tự tận, cách chức Tể tướng của Đinh Vị[24][25]. Từ sau khi Đinh Vị bị bãi, Lưu Thái hậu theo trình tự mà Vương Tăng soạn, ngự Thừa Minh điện nghe chính sự[26], Thái hậu lại bãi chức của Tham chính Nhậm Trung; gia phong Phùng Chửng làm Đại học sĩ Chiêu Văn quán; Vương Tăng làm Trung thư thị lang, kiêm Đại học sĩ Tập Hiền điện và hàm "Đồng Trung thư môn hạ Bình chương sự"; Lã Di GiảnLỗ Tông Đạo làm Tham tri chính sự; Tiền Duy Diễn làm Xu mật sứ[27].

Khi đó, Đinh Vị nuôi một Nữ đạo sĩ là Lưu Đức Diệu (劉德妙), sau khi Chân Tông mất, Đức Diệu thường vào cung cấm. Đinh Vị tìm cách sai Đức Diệu giả thần giả quỷ để mê hoặc Lưu Thái hậu, nhưng Lưu Thái hậu không bị mắc lừa. Khi Đinh Vị bị tội, Lưu Thái hậu liền bắt Lưu Đức Diệu xuống thẩm vấn, lại cho lục soát nhà Lưu Đức Diệu, thấy có thư của Đinh Vị, trên giấy đề bốn chữ "Hồn Nguyên hoàng đế". Lưu Thái hậu giam luôn Lưu Đức Diệu trong ngục, lấy lý do Đinh Vị qua lại với đồng cốt, giáng làm Nhai Châu Tư hộ tham quân, tịch biên gia sản.

Độc quyền chưởng chánh

Năm Thiên Thánh thứ 2 (1024), tháng 11, Tống Nhân Tông cùng quần thần chính thức làm lễ dâng tôn huy hiệu cho Lưu Thái hậu, là Ứng Nguyên Sùng Đức Nhân Thọ Từ Thánh Thái hậu. Ngày ấy, Thái hậu đội Nghi Thiên quan (儀天冠), mặc Cổn y (袞衣) để ngự điện, đây đều là trang phục của các Hoàng đế khi lâm triều[28][29]. Tống Nhân Tông dần trưởng thành, nhưng Lưu Thái hậu vẫn không có ý giao lại quyền hành cho Nhân Tông. Ông thường xuyên đau ốm, đích thân Dương Thái phi chăm sóc sức khỏe, vì Lưu Thái hậu thường xuyên triệu quần thần bàn việc quốc gia. Tống Nhân Tông đối với Lưu Thái hậu và Dương Thái phi rất kính trọng, tôn kính gọi Lưu Thái hậu là 「"Đại nương nương"; 大娘娘」, Dương Thái phi là 「"Tiểu nương nương"; 小娘娘」.

Năm Thiên Thánh thứ 7 (1029), một loạt sự kiện trọng đại xảy ra. Lưu Thái hậu quyết định trị tội Tào Lợi Dụng, do Lợi Dụng cậy mình là huân thần, vào điện cũng không gọi tên nên khiến ông ta không còn kiêng dè gì nữa. Ngay đó, Thái hậu viết thư gửi Tể thần Vương Tăng, hạch tội Tào Lợi Dụng và cháu trai mưu phản, nhưng Vương Tăng cùng các đại thần vẫn rất kiêng nể Tào Lợi Dụng, không chỉ trích kịch liệt. Lưu Thái hậu do đó xử lý Tào Lợi Dụng cũng nhẹ tay, chỉ cho biếm truất. Sau Tào Lợi Dụng cũng tự sát[30][31].

Vương Tăng thấy Thái hậu chuyên quyền, nhiều lần khuyên Lưu Thái hậu không nên lạm quyền quá, Thái hậu tuy nghe theo nhưng trong lòng rất bực tức. Mùa hạ năm đó, nhân Ngọc Thanh cung bị hỏa hoạn, cháy trụi hết, Lưu Thái hậu nói là do tể tướng không biết điều hòa âm dương, liền đày Vương Tăng ra Thanh Châu. Đại thần Phạm Trọng Yêm dâng sớ nói Tống Nhân Tông đã lớn, xin Lưu Thái hậu hết buông rèm. Lưu Thái hậu tức giận, liền đày Phạm Trọng Yêm ra Thông Châu. Trong ngoài đều cho rằng Lưu Thái hậu có ý tiếm ngôi xưng Đế. Tiểu thần Phương Trọng Cung (方仲弓) muốn lấy lòng Lưu Thái hậu, dâng sớ cho lập miếu họ Lưu, lại dâng vẽ bức tranh 「Võ hậu lâm triều đồ; 武后臨朝圖」 mà dâng lên. Lưu Thái hậu tức giận ném bức tranh xuống đất và cấm không ai được làm những chuyện như vậy nữa[32].

Năm Minh Đạo nguyên niên (1032), tháng 11, Lưu Thái hậu muốn mặc áo Cổn, đội mũ Miện là đồ dành cho Thiên tử mà vào yết Thái miếu. Lễ Bộ thị lang Tiết Khuê (薛奎) can là không nên[33]. Sang năm sau (1033), tháng 2, Lưu Thái hậu vẫn mặc cổn miện vào Thái miếu. Để làm thỏa lòng Thái hậu và giới sĩ phu thiên hạ, Thái hậu cho bỏ đi 2 chương biểu thị "trung hiếu" và "khiết tịnh" là ["Tông di"; 宗彝] và ["Tảo"; 藻], đồng thời cũng không đeo kiếm ngọc biểu thị của Hoàng đế. Dương Thái phiQuách Hoàng hậu theo hầu giá[34].

Tại Văn Đức điện, bà được quần thần tôn tôn hiệu Ứng Thiên Tề Thánh Hiển Công Sùng Đức Từ Nhân Bảo Thọ Hoàng thái hậu (應天齊聖顯功崇德慈仁保壽皇太后), ca ngợi công đức của bà. Ngày hôm đó, Lưu Thái hậu cũng chính thức trao trả quyền hành về cho Tống Nhân Tông.